Hồi lớp chín, buổi sáng, tôi với Việt đều đặn chạy bộ. Nói đúng hơn là tôi chạy, còn Việt đi bộ. Khi tôi chạy được ba vòng quanh công viên thì cậu ấy mới kết thúc được một vòng đi bộ. Sau đó tôi và cậu ấy cùng đi chậm và nói chuyện, cho tới khi về đến nhà… Khoảng cuối năm, Việt bỗng thường xuyên bị ù tai và chảy máu mũi. Sức khoẻ không ổn, nhưng Việt vẫn khá lạc quan.
Một hôm, chạy xong vòng đường công viên, bất chợt tôi và cậu ấy nghe vẳng tiếng mèo kêu. Bị ai đó đem bỏ ngoài trời trong đêm mưa, con mèo ướt rượt sương lạnh. Lau khô rồi ôm vào ngực ủ ấm cho con vật khốn khổ, Việt rủ tôi: “Bọn mình nuôi chung nhé!”
Sau nhiều tranh cãi và cả giận dỗi, hai đứa chọn cho con mèo rằn cái tên Ron. Ron yếu đến nỗi suốt một tuần liền không thể nhấc đầu dậy tự ăn sữa được. Bước vài bước, Ron ngã quay, nằm bẹp dí. Nhưng nó vẫn cố, tập ăn và tập đi. Có lần đi học về, tôi tưởng nó đã chết vì cái bụng không còn thoi thóp. Nhưng mà nó vẫn sống. Khi cả hai đứa đã cạn hết hy vọng với Ron thì nó dần dần khoẻ lại. Nó không còn nằm im góc bếp nữa. Ngoài liếm sữa, Ron đã biết ăn cơm trộn cá và cả rau luộc. Nó cứng cáp, bắt đầu lớn phổng lên.
Có lẽ vì cuộc sống khởi đầu đã không hề dễ dàng, Ron không hề là một bé cưng lí lắc tinh nghịch. Nó chỉ thích ngồi im, rụt cổ vào bộ lông rằn, không bị ai quấy nhiễu là được. Nhưng nó rất mến Việt, có lẽ dù là không nuôi nó, nhưng Việt chính là người ôm lấy nó đầu tiên. Việt đến nhà tôi chơi, là nó lao đến dụi đầu to gộ vào mũi chân, kêu grù grù, cái đuôi dựng lên như ngọn cờ. Và khi chúng tôi lén cầm tay nhau khi tôi tiễn Việt về nhà, dường như muốn thế hiện là một con mèo biết ý, nó dựng đuôi, bỏ đi chỗ khác.
Giữa năm lớp mười, sức khoẻ Việt trở nên tệ hại. Cậu ấy gầy hóp đi từng ngày. Việt phải nghỉ học, nằm dài ngày trong bệnh viện. Thấy bóng tôi đến thăm, cậu ấy vội kéo mền đắp cao đến cổ, che giấu thân thể tiều tuỵ. Cậu ấy cười rất tươi, nhưng tôi thì giống như bước hụt chân vậy.
Tôi bắt đầu cảm thấy rõ nét nỗi đau đớn, sự mất mát, những bất trắc không thể hiểu hết của cuộc sống. Ý nghĩ có thể mất đi cậu ấy làm tôi rất sợ. Có lẽ Ron cảm thấy sự vắng mặt của Việt và sự trầm lặng của tôi là đầy bất an. Nó dường như tìm mọi cách an ủi tôi bằng sự hiện diện của nó. Tôi học bài, Ron nằm gác cằm lên quyển sách, nhìn tôi qua cặp mắt mở hé. Khi tôi ngủ, nó nhẹ nhàng nhảy lên, rúc vào cổ tôi. Đưa tay vuốt ve nó, tôi nhớ những ngày tôi và Việt còn khoẻ mạnh, hai đứa rủ nhau dậy sớm, đi chạy thể dục. Một niềm hy vọng an lành bước đến, dỗ tôi vào giấc ngủ…
Được điều trị chu đáo, nhưng Việt mỗi ngày một yếu. Hoá trị rồi xạ trị làm cậu ấy kiệt sức, sa sút tinh thần. Hôm đó, sau đợt xạ trị mười ngày, Việt bảo tôi: “Cứ làm mấy thứ này hoài chi vậy? Vô ích hết! Tớ sắp thua rồi. Tớ chỉ ước về nhà, gặp gỡ các bạn, đi chơi thêm một lần, rồi sau đó ra đi cũng được…”. Dù tôi nói gì, tìm đủ cách để vực tinh thần cậu ấy dậy, thì Việt vẫn rút vào một lớp vỏ cứng, không đoái hoài gì nữa.
Chủ nhật, Việt ngồi xe lăn ở bãi cỏ sân bệnh viện. Tôi đến thăm, chiếc ba-lô căng phồng sau lưng. Đẩy xe sang một góc vắng, tôi ngồi xuống cạnh Việt, nhè nhẹ mở khoá ba-lô. Ron thò đầu ra, đôi mắt hấp háy. Ngay lập tức, chú mèo rằn nhận ra Việt. Chú ta nhảy vào lòng cậu ấy, dụi đầu, rù rù trong cổ, thân thiết vô cùng. Tôi nói khẽ: “Cậu nhớ hồi đó Ron tưởng như không thể sống nổi không?”. Việt lặng đi. Cậu ấy gật khẽ.
Người bạn can trường của tôi đã theo đuổi một năm điều trị tích cực. Khi đợt xạ trị cuối cùng chấm dứt, sức khoẻ Việt tốt lên hẳn. Khối u đã được cô lập.
Giờ thì Việt học sau tôi một lớp. Chẳng sao cả. Hai đứa vẫn là một đôi thân thiết, buổi sáng vẫn cùng nhau đi tập thể dục. Chúng tôi hầu như không bao giờ nhắc về những ngày u ám đã qua. Có lẽ bởi các trải nghiệm lớn, dù ở tuổi nào, cũng khó nói lên như những lời bình thường.
Và Ron, lặng lẽ nhưng lịch thiệp, vểnh đuôi ngoắt đi khi chúng tôi trao nhau nụ hôn đầu.
Mai Anh